Showing posts with label xây dựng. Show all posts
Showing posts with label xây dựng. Show all posts

Thursday, August 23, 2018

Ngày nay, Nhà xưởng thép tiền chế hay Nhà xưởng kết cấu thép luôn được các Chủ Đầu Tư chọn lựa cho dự án thi công xây dựng công trình của mình.

Thiết kế nhà xưởng là công việc vô cùng quan trọng trong dự án triển khai công trình xây dựng, cải tạo nâng cấp nhà xưởng, đòi hỏi người tư vấn thiết kế phải có chuyên môn và kinh nghiệm trong việc bố trí các chức năng khi thiết kế nhà xưởng

Kết cấu khung thép được tính toán chắc chắn và phù hợp với công năng sử dụng của nhà xưởng công nghiệp, giúp cho chủ đầu tư vừa tiết kiệm tối đa vật liệu lại vừa thỏa mãn được không gian cho nhu cầu sử dụng.

 Thi công nhà máy bia Sapporo

Nhà thép tiền chế


Qua bài viết hôm nay mình xin được giới thiệu đến các bạn những nội dung tiêu chuẩn thiết kế nhà xưởng cơ khí và tìm hiểu tổng quan quy trình thiết kế xây dựng nhà xưởng quan trọng mà bạn nên biết để hỗ trợ cho quá trình công tác và nâng cao kỹ thuật của bản thân nhé.

Giới thiệu tổng quan về nhà xưởng cơ khí

- Phân xưởng cơ khí là phân xưởng sản xuất chính của nhà máy cơ khí, đóng vai trò chủ yếu trong quá trình sản xuất 

Hầu hết các chi tiết của sản phẩm cơ khí phải gia công ở phân xưởng cơ khí. 
Khối lượng lao động của phân xưởng cơ khí chiếm khoảng 40 - 60% của nhà máy cơ khí. 
Phân xưởng cơ khí chiếm số lượng máy nhiều nhất, máy phức tạp và đắt tiền, máy có nhiều cơ cấu, kiểu, loại khác nhau, vốn mua máy lớn. 
Phân xưởng cơ khí được tổ chức theo kết cấu và công nghệ của sản phẩm cơ khí

- Cấu trúc của phân xưởng cơ khí: 

Bộ phận sản xuất: gồm máy cắt, gian nguội, gian kiểm tra chất lượng gia công... 
Bộ phận phụ; gồm chuẩn bị phôi, gian mài cắt dụng cụ cắt, kho bán thành phẩm, kho thành phẩm... 
Bộ phận phục vụ và sinh hoạt: văn phòng, phòng sinh hoạt ...

Những tài liệu cần có để thiết kế nhà xưởng cơ khí

- Mặt hàng (kiểu loại, đặc tính kỹ thuật của sản phẩm cần chế tạo). 
- Sản lượng của sản phẩm, trọng lượng của sản phẩm . 
- Số lượng chi tiết, các loại có trong kết cấu một sản phẩm và toàn bộ sản lượng. 
- Sản phẩm phụ các loại (sản lượng, trọng lượng
- Bản vẽ lắp chung sản phẩm, cụm, bộ phận. 
- Bản vẽ chế tạo từng loại chi tiết (ghi đầy đủ kích thước và điều kiện kỹ thuật). 
- Bản kê khai các loại bán thành phẩm và chi tiết chuẩn mua ngoài. 
- Các văn bản xác nhận về hợp tác, liên kết sản xuất(cung ứng phôi liệu, năng lượng.v.v.).

Các bước thiết kế nhà xưởng cơ khí

- Thiết kế và kiểm nghiệm quá trình công nghệ các loại chi tiết của sản phẩm cơ khí khi cần chế tạo.
- Xác định tổng khối lượng lao động. 
- Xác định số máy cắt cần thiết và nhu cầu về năng lượng cho sản xuất. 
- Xác định nhu cầu về vật liệu, dụng cụ, gá lắp, kho tàng, vận chuyển, sửa chữa ... 
- Xác định nhu cầu về lao động. 
- Xác định nhu cầu về diện tích. 
- Bố trí mặt bằng phân xưởng cơ khí. 
- Xác định kết cấu nhà xưởng và thiết bị nâng chuyển
- Xác định các số liệu đặc trưng về năng lực và hiệu quả sản xuất

Công nghệ áp dụng trong thiết kế và quy hoạch nhà xưởng cơ khí

- Giải pháp công nghệ gia công chi tiết phụ thuộc vào quy mô và điều kiện sản xuất thực tế 
- Hai phương án về giải pháp công nghệ: Tập trung nguyên công và phân tán nguyên công. 
- Tập trung nguyên công: bố trí nhiều bước công nghệ trong một nguyên công. 
- Phân tán nguyên công: bố trí ít bước công nghệ trong một nguyên công 
- Hiện nay: Tập trung nguyên công trên các máy, trung tâm gia công, tế bào gia công điều khiển CNC.

Bố trí mặt bằng phân xưởng

- Ba yếu tố đặc trưng: 

Kỹ thuật 
Thời gian 
Không gian 

- Các dạng cấu trúc không gian: 

Bố trí máy theo thứ tự các nguyên công của quá trình công nghệ thành hàng máy nối tiếp nhau hoặc kết hợp giữa nối tiếp và song song. 
Bố trí máy theo kiểu loại máy tạo thành các khu vực, bộ phận sản xuất. 
Bố trí máy thành nhóm, cụm linh hoạt.

Để giúp cho các chủ đầu tư nói riêng và các doanh nghiệp nói chung hình dung và nắm rõ việc xây dựng nhà xưởng – xây dựng nhà kho phải trải qua qui trình như thế nào. Với đội ngũ giỏi chuyên môn, thông thạo ngoại ngữ chuyên ngành và có nhiều kinh nghiệm trong việc thiết kế các nhà xưởng công nghiệp lớn cho các tập đoàn nước ngoài, Song Nam là một địa chỉ tin cậy của các chủ đầu tư trong và ngoài nước trong việc thiết kế, xin phép, giám sát, quản lý cũng như lựa chọn đơn vị thi công các dự án nhà xưởng công nghiệp, nhà thép tiền chế tiết kiệm thời gian và chi phí đầu tư nhất.
Công tác thẩm tra dự toán là gì? 

Thẩm tra dự toán và thiết kế xây dựng công trình là một trong những công tác đóng vai trò rất quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng xây dựng, tiến độ thời gian thi công xây dựng công trình và ngân sách của dự án.

Thẩm tra thiết kế là việc thẩm tra một cách độc lập thiết kế của một hệ thống kỹ thuật theo quy định của các tiêu chuẩn áp dụng. Phạm vi thẩm tra thường bao gồm: móng, kết cấu; chống sét và phòng cháy chữa cháy; các hệ thống M&E; và sự tương thích của các phương án thiết kế kiến trúc, kết cấu và cơ điện.

Chính vì vai trò đặc biệt quan trọng của công tác này mà các  nhà chủ đầu tư đều quan tâm lựa chọn cho mình một đơn vị chuyên tư vấn và cung cấp dịch vụ giải pháp thẩm tra thiết kế dự toán uy tín và chuyên nghiệp để bảo đảm công trình thực hiện an toàn đúng chất lượng tiến độ xây dựng và đảm bảo ngân sách xây dựng không bị đội vốn. Qua bài viết này chúng ta cùng tìm hiểu quy trình thực hiện công tác thẩm tra dự toán thiết kế xây dựng như thế nào nhé!


Thẩm tra thiết kế kỹ thuật Cao ốc văn phòng Phổ Quang


Quy trình thẩm tra thiết kế dự toán xây dựng

- Các kỹ sư có kỹ năng chuyên môn cùng kinh nghiệm sẽ tiến hành thẩm tra lại toàn bộ khối lượng công việc trên dựa án xây dựng nhằm đảm bảo sự phù hợp giữa khối lượng dự toán so với khối lượng thiết kế của công trình.

- Kiểm tra và phát hiện những điểm bất cập trong đồ án thiết kế xây dựng để đề xuất các phương án chỉnh sửa tối ưu nhất giúp mang lại hiệu quả cho dự án.

- Đánh giá và xem xét sự phù hợp của các định mức chi phí kinh tế và kỹ thuật, giám sát việc thực hiện các chế độ chính sách có theo các quy định của nhà nước hay không.

- Chịu trách nhiệm tính toán và xác định tổng dự toán của công trình xây dựng để đưa ra kết quả chuẩn xác nhất cho chủ đầu tư.

- Tính toán một cách chính xác nhất dựa trên khối lượng xây dựng của công trình để có thể kiểm soát hiệu qủa chi phí xây dựng trong quá trình nhà thầu thi công triển khai các hạng mục xây dựng trên công trình.


Sau chiến thắng Điện Biên Phủ (1954), thực dân pháp phải rút khỏi Việt Nam và hòa bình được lập lại ở miền Bắc Việt Nam. Khi ấy miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội, còn miền Nam tiếp tục cách mạng dân tộc dân chủ, bởi đất nước còn bị chia cắt thành hai miền Bắc - Nam.  



Hà Nội năm 1954 (Ảnh Bảo tàng) 

Sau một thời gian ngắn tiếp quản Thủ đô, Bộ Giao thông Công chính có quyết định tách làm 2 Bộ: Bộ giao thông Vận tải và Bộ Thủy lợi - Kiến trúc. Chủ trương lúc đó nhằm tập hợp các kiến trúc sư đi theo kháng chiến về Bộ Thủy lợi - Kiến trúc để thành lập Nha Kiến trúc. Kiến trúc sư (KTS) Nguyễn Văn Ninh được chỉ định làm Giám đốc Nha, KTS Nguyễn Cao Luyện làm Phó Giám đốc. Tổng cộng toàn miền Bắc lúc đó chỉ có 18 KTS, thì tập trung về Nha đến 14 người và hơn mười cán bộ can họa. Lực lượng của nha tuy nhỏ bé nhưng phải đảm nhiệm một trọng trách rất lớn là thiết kế, cải tạo, phát triển xây dựng, phục hồi các đô thị và điểm dân cư nông thôn toàn miền Bắc. Tập thể kiến trúc sư lúc đó còn rất bỡ ngỡ về phương hướng phát triển các đô thị xã hội chủ nghĩa. Năm 1956, do nhu cầu phát triển rất nhanh chóng của công việc nên tổ chức đã nghiên cứu thành lập Phòng Đô thị trong Nha và bổ nhiệm KTS Hoàng Như Tiếp phụ trách... 
Vào thời kỳ đó thế giới chia làm 2 phe rõ rệt. Do tình hình lúc đó đất nước còn bị chia cắt, chiến tranh còn âm ỉ và có nguy cơ bùng nổ nên xây dựng đô thị phải gắn với chiến lược quốc phòng, không phát triển xây dựng quá tập trung các công trình trọng điểm, không phát triển các công trình trọng điểm ven biển và dọc biên giới mà phải đưa sâu vào đất liền. 
Phương châm chung về quy hoạch đô thị thời ký đó là: Phục vụ công nghiệp, phục vụ sản xuất; Phục vụ đời sống của đông đảo nhân dân lao động và kết hợp với yêu cầu quốc phòng.
Phương châm chung về quy hoạch nông thôn là: Phục vụ sản xuất nông nghiệp; Phục vụ đời sống của đông đảo nhân dân lao động.
Phương châm thiết kế công trình kiến trúc là: Tiện dụng, bền vững và đẹp trong điều kiện có thể.
Để chuẩn bị bước vào thời kỳ phát triển kinh tế, xây dựng công nghiệp và phát triển đô thị ở miền Bắc, nhiều tổ chức mới lần lượt được hình thành. Năm 1958 Bộ Thủy lợi và Kiến trúc được tách thành 2 Bộ: Bộ Thủy lợi và Bộ Kiến trúc, là tiền thân của Bộ Xây dựng ngày nay.

Nét xưa trong lòng Hà Nội (Ảnh: Zing.vn)
Ngày 29/8/1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh dự họp Hội nghị Bộ Chính trị bàn về mở rộng TP Hà Nội theo kế hoạch dài hạn. Phát biểu khai mạc hội nghị, Người nêu rõ: “Mở rộng thành phố phải căn cứ vào thiên thời (mưa, gió, nắng…), địa lợi (địa chất, sông, hồ…) và nhân hòa (lợi ích của nhân dân, của Chính phủ…). Công tác quy hoạch thành phố phải hợp lý, bảo đảm được cả về kinh tế, mỹ quan và quốc phòng, phải có kế hoạch vận động quần chúng tham gia…
Ngày 16/11/1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh dự Hội nghị Ban Bí thư thảo luận về những công trình lớn trong quy hoạch của TP Hà Nội và mở rộng ngoại thành. Phát biểu trong Hội nghị, Người căn dặn trong thiết kế phải đồng bộ (đường xá, hệ thống thoát nước, lưới điện…), tránh cản trở sự đi lại của nhân dân. Phải có quy hoạch trước, tránh làm rồi lại phá đi và phải thực hiện nhanh - nhiều - tốt - rẻ.
Lời dặn dò, chỉ đạo của Bác ngày ấy đã trở thành hành trang cho những nhà kiến trúc, xây dựng, quy hoạch đô thị của Bộ Kiến trúc (nay là Bộ Xây dựng) ngay từ năm đầu tiên khi vừa được thành lập.

Phố xưa, nhà cổ Hà Nội (Ảnh Bảo tàng)
Thời kỳ này quy hoạch xây dựng đô thị dựa trên lý thuyết Khu nhà ở với 3 cấp phục vụ tổ chức theo tầng bậc và các mẫu đơn nguyên căn hộ khép kín được du nhập từ Liên Xô (cũ) vào nước ta. Việc nghiên cứu ứng dụng mô hình này đầu tiên vào nước ta dưới sự hướng dẫn của chuyên gia Liên Xô là tiểu khu Kim Liên, quận Đống Đa, TP Hà Nội. Mẫu nhà lắp ghép bằng tấm panen cũng được áp dụng song song với sự giúp đỡ của chuyên gia Công hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên. Các công trình lợi ích công cộng theo phân cấp như nhà trẻ - mẫu giáo, trường học, bệnh viện, cửa hàng… được quan tâm phát triển xây dựng. 
Các khu công nghiệp như công nghiệp nặng gang thép Thái Nguyên, công nghiệp nhẹ Việt Trì, công nghiệp hóa chất Bắc Giang, khu công nghiệp Thượng Đình, Minh Khai ở Hà Nội, khu Cửa Cấm ở Hải Phòng, than và nhiệt điện ở Quảng Ninh, khu Apatit Cam Đường ở Lào Cai… được hình thành và trở thành cơ sở quan trọng cho việc tạo lập, hình thành đô thị sau này mà thời ấy gọi là “cơ sở tạo thị”. 
Đô thị hóa phát triển theo chiều rộng với xu hướng chiến lược là xây dựng một mạng lưới đô thị trung bình và nhỏ đều khắp lãnh thổ đất nước, từ đồng bằng lên vùng trung du, miền núi để thực hiện sự bình đẳng giữa các dân tộc, tạo cơ hội cho “miền núi đuổi kịp miền xuôi”. Việc quy hoạch sử dụng đất lúc đó dường như tránh sử dụng đất canh tác nông nghiệp. 

Sài Gòn trước 1975 (Ảnh Bảo tàng) 

Giai đoạn 1965 - 1975

Sau sự kiện Vịnh Bắc bộ ngày 5/8/1964, đế quốc Mỹ ngày càng leo tháng đánh phá miền Bắc, phá hoại hầu hết các tuyến giao thông huyết mạch, oanh kích hủy diệt các khu công nghiệp, nhiều khu dân cư ở hầu hết các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng…
Trong tình hình như vậy, có 2 nhiệm vụ chính được đặt ra: Một là: Mở rộng công tác quy hoạch xây dựng nông thôn (theo quy mô xã, hợp tác xã, vùng liên xã) để phục vụ hợp tác hóa và hoạch định bước đi nhanh lên sản xuất lớn; Hai là: Nghiên cứu phát triển Thủ đô Hà Nội lên Bắc sông Hồng. Theo đó có 2 phương án chính, một là dựa vào dãy núi Ba Vì và Trường Sơn, hai là dựa vào dãy núi Tam Đảo.
Trong bản di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh được viết vào ngày 10/5/1969, khi mà cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đang diễn ra hết sức ác liệt ở cả hai miền Nam - Bắc, Người viết: “Còn non, còn nước, còn người / Thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay!”, đã thể hiện niềm tin tuyệt đối của Người vào ngày toàn thắng của đất nước ta, của dân tộc ta, đồng thời cũng đặt ra trọng trách cho ngành xây dựng, chuẩn bị lực lượng cho công tác khôi phục, cải tạo, xây dựng mới các công trình, các đô thị bị tàn phá trong thời kỳ hậu chiến. 
Cuộc chiến đấu bảo vệ miền Bắc chống lại chiến tranh phá hoại của không lực Hoa Kỳ mà đỉnh cao là trận Điện Biên Phủ trên không (12/1972), đã buộc Mỹ phải tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc. 
Ngày ấy, nhiều đoàn chuyên gia các nước xã hội chủ nghĩa đã sang Việt Nam giúp Bộ Xây dựng lập quy hoạch nhiều đô thị: Liên Xô giúp Thủ đô Hà Nội, Ba Lan giúp TP Hải Phòng, Công hòa dân chủ Đức giúp TP Vinh và xây dựng khu nhà ở Quang Trung, Rumani giúp TP Nam Định và thị xã Phủ Lý, Hungari giúp TP Hòn Gai - Bãi Cháy, Bungari giúp thị xã Thái Bình, Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên giúp thị xã Bắc Giang, Cu Ba giúp thị xã Đồng Hới.
Ngoài ra còn có đoàn chuyên gia xây dựng của Đảng cộng sản Nhật do đồng chí KTS NoRoLara-Morikia làm trưởng đoàn đã giới thiệu những kinh nghiệm quy hoạch và xây dựng đô thị ở Nhật Bản và đóng góp những ý kiến quý báu về quy hoạch xây dựng và cải tạo Thủ đô Hà Nội. 

Huế (Nguồn: Internet) 

Giai đoạn 1976 - 1985

Đây là giai đoạn cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội sau khi thống nhất đất nước (1975). Khi ấy nước ta có hai hệ thống đô thị hoàn toàn khác nhau ở hai miền Nam, Bắc:
Đô thị miền Bắc đã qua một thời công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, nhưng bị đề quốc Mỹ đánh phá nặng nề, đặc biệt là cơ sở sản xuất và kết cấu hạ tầng kỹ thuật. Nông thôn đã hợp tác hóa nông nghiệp, tạo ra những tiền đề cần thiết để tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. 
Các đô thị miền Nam chủ yếu hình thành và phát triển theo mô hình đô thị hành chính, quân sự trên cơ sở kết hợp xây dựng đô thị với việc bố phòng mạng lưới căn cứ đồn bốt và dịch vụ quân đội viễn chinh. Dân cư từ các vùng nông thôn đã đổ về một số thành phố lớn và tạo ra sự bùng nổ dân số đô thị.
Giai đoạn này miền Bắc nhanh chóng phục hồi các đô thị, các cơ sở công nghiệp và hạ tầng đô thị bị tàn phá nặng nề trong chiến tranh. Các đô thị ở miền Nam chủ yếu là đô thị phi sản xuất, do hậu quả của chiến tranh để lại. Nhưng từ những năm 1980 trở đi, hệ thống đô thị toàn quốc đã dần hình thành, với các đô thị cấp quốc gia như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh; các đô thị trung tâm vùng và mạng lưới các thị trấn huyện lỵ.  

Sài Gòn sau năm 1975 (Ảnh:Zing.vn) 

Công trình thủy điện sông Đà (Ảnh Bảo tàng) 

Giai đoạn 1986 - 1995

Đại hội đảng toàn quốc lần thứ VI, năm 1986 với chính sách “Đổi mới” nhằm xóa bỏ bao cấp và đặt nền móng cho sự ra đời của nền kinh tế thị trường đã tạo điều kiện hội nhập với các nước trên thế giới, mở rộng cơ chế thị trường cho nhiều thành phần kinh tế hoạt động theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó cũng chính là những động lực cơ bản để công tác quy hoạch và phát triển đô thị tiếp tục đổi mới, vươn lên… 
Trước tình hình đó, nhu cầu đổi mới công tác quy hoạch xây dựng và phát triển đô thị đã được đặt ra. Những nội dung về đổi mới đã được đặt ra như: Vai trò của nền kinh tế kế hoạch tập trung sẽ tác động đến xây dựng đô thị như thế nào? Các thành phần kinh tế cá thế hay tư nhân tham gia xây dựng nhà ở và hạ tầng đô thị ở mức độ nào? Hành lang pháp lý cho công tác lập quy hoạch đô thị và xây dựng, phát triển đô thị ra sao?...
Trong hai ngày 3 - 4/12/1990, Hội nghị đô thị toàn quốc lần thứ nhất đã được tổ chức tại Hà Nội, Hội nghị đã bàn nhiều vấn đề về đô thị. Trên cơ sở kết quả của Hội nghị này, ngày 22/1/1991, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đã ra Chỉ thị số 19/CP về việc chấn chỉnh công tác quản lý đô thị, trong đó nêu ra 5 nhiệm vụ cấp bách là: Cần nhận thức rõ vị trí chiến lược và vai trò quan trọng của hệ thống đô thị; đổi mới công tác quy hoạch và tăng cường quản lý xây dựng đô thị; gấp rút bổ sung, sửa đổi và xây dựng mới các luật lệ và chính sách về xây dựng và quản lý đô thị; huy động mọi nguồn tài chính vào việc phát triển đô thị, xóa bỏ bao cấp tràn lan trong quản lý đô thị, nhưng phải đảm bảo các chính sách xã hội; tăng cường quyền hạn và trách nhiệm của Chủ tịch UBND các đô thị, củng cố và kiện toàn bộ phận quản lý xây dựng và lực lượng trật tự, quy tắc ở các đô thị.

Thành phố biển Nha Trang (Nguồn: Internet) 

TP Vũng Tàu (Ảnh: Báo Kinh tế & Đô thị)
Sau 5 năm (1990 - 1995) đô thị nước ta có bước phát triển mới khá mạnh mẽ, diễn ra tại hầu hết các đô thị, không phân lớn nhỏ, ở miền xuôi cũng như miền núi, ở ven biển cũng như trên biên giới đất liền. Nhiều điểm dân cư mới mang tính đô thị đã xuất hiện. Sự phát triển của đô thị thể hiện trên các mặt sau đây: Dân số đô thị tăng từ 12,74 triệu người (1989) lên gần 15 triệu người (1995). Khách vãng lai vào đô thị cũng tăng nhiều, kể cả khách du lịch trong nước và nước ngoài. Nhiều đô thị được nâng loại: số đô thị loại II từ 1 tăng thành 5, số đô thị loại III là 15, thêm 4 đô thị được chuyển cấp quản lý hành chính trở thành thành phố; công nghiệp và dịch vụ phát triển nên đô thị đã góp phần quan trọng trong việc tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) của cả nước (chiếm xấp xỉ 40%); các đô thị bị tàn phá trong chiến tranh biên giới đã được xây dựng lại đàng hoàng hơn trước. Các đô thị được trở thành tỉnh lỵ của các tỉnh mới tách ra cũng phát triển nhanh chóng. 
Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp quy nhằm tăng cường quản lý đô thị: Luật đất đai sửa đổi năm 1993 đã đưa đất đô thị vào phân loại đất đai. Tiếp đó Chính phủ ban hành Nghị định số 88/CP (1994) về việc quản lý và sử dụng đất đô thị và Nghị định số 91/CP (1994) về Ban hành điều lệ quản lý quy hoạch đô thị. Pháp lệnh nhà ở (1991) đã tạo ra khuôn khổ pháp lý cho việc cải cách lĩnh vực nhà ở. Các nghị định số 60/CP và 61/CP (1994), trên cơ sở pháp lệnh đó và kinh nghiệm làm thí điểm ở một số đô thị đã triển khai việc cải cách nhà ở vào tất các các đô thị. Nghị định 118/CP đưa tiền nhà vào tiền lương, xóa bỏ khoản bao cấp cuối cùng đối với công nhân, viên chức Nhà nước… 
Chính phủ đã chính thức phê duyệt quy hoạch tổng thể của Thủ đô Hà Nội, TP Hồ Chí Minh và một số đô thị quan trọng khác. Chính phủ cũng nhiều lần xem xét quy hoạch tổng thể các địa bàn kinh tế trọng điềm: phía Bắc (tam giác Hà Nội - Hải Phòng - Hạ Long), phía Nam (tam giác TP Hồ Chí Minh - Biên Hòa - Vũng Tầu) và miền Trung (Huế - Đà Nẵng - Dung Quất). Ngoài quy hoạch tổng thể (nay là quy hoạch chung) và quy hoạch chi tiết, nhiều đô thị đang làm quy hoạch chuyên ngành như quy hoạch giao thông, quy hoạch cấp nước, thoát nước của Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Hải Phòng… 

TP Hạ Long (Ảnh: Báo TTTT) 

Giai đoạn 1995 - 2008

Năm 1995, Hội nghị đô thị toàn quốc lần thứ hai đã được tổ chức trong 3 ngày 25-27/7/1995 tại TP Hồ Chí Minh. Hội nghị đã bàn đến nhiều nội dung liên quan đến công tác quy hoạch và quản lý phát triển đô thị. Có thể nói đây là giai đoạn bùng nổ trong xây dựng đô thị của quá trình đô thị hóa, hiện đại hóa và công nghiệp hóa. Nhiều địa phương đã nghiên cứu điều chỉnh các quy hoạch đô thị đã được phê duyệt, trong đó phải kể đến Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Huế, Cần Thơ, Hạ Long, Nha Trang, Vũng Tàu… Quy hoạch các đô thị mới và các đô thị tỉnh lỵ mới được tách tỉnh như Vạn Tường - Dung Quất, Chu Lai - Kỳ Hà, Bắc Ninh, Hưng Yên, Gia Nghĩa… đã được triển khai thực hiện. Các quy hoạch vùng lãnh thổ quan trọng như: vùng Thủ đô Hà Nội, vùng biên giới phía Bắc, vùng duyên hải miền Trung, vùng Tây Nguyên, vùng TP Hồ Chí Minh, vùng đồng bằng sông Cửu Long… nhằm liên kết phát triển các đô thị trong vùng cũng đã được triển khai. 
Nếu như năm 1990 có rất ít đô thị được lập quy hoạch thì đến năm 1995 hầu hết các thành phố, thị xã đều đã có quy hoạch chung được duyệt. Đáng chú ý là phương pháp luận quy hoạch đô thị có sự đổi mới. Những quy hoạch mới thông qua đều được kèm theo điều lệ quản lý xây dựng theo quy hoạch cho đô thị đó. Trên cơ sở quy hoạch tổng thể, nhiều đô thị đã lập quy hoạch chi tiết cho các khu vực cần phát triển. 
Nhiều văn bản pháp quy quan trọng như Luật Xây dựng, Nghị định về quy hoạch xây dựng, đánh giá tác động môi trường trong quy hoạch xây dựng đã được ban hành trong giai đoạn này. Ngày 26/11/2003, Quốc hội khóa XI thông qua Luật Xây dựng. Trong luật Xây dựng có chương II về Quy hoạch xây dựng lần đầu tiên được ban hành, quy định về công tác quy hoạch xây dựng vùng, đô thị và nông thôn. Tiếp theo đó ngày 24/01/2005, Chính phủ ban hành nghị định 08/2005/NĐ-CP về quy hoạch xây dựng đánh dấu một bước ngoặt của thời kỳ luật hóa công tác quy hoạch xây dựng vùng, đô thị, nông thôn. 

TP Bắc Ninh (Ảnh: Bacninhtoancanh.com) 

Giai đoạn 2009 đến nay

Giai đoạn này các văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực quy hoạch xây dựng và phát triển đô thị cơ bản đã được kiện toàn. Năm 2009 Quốc hội thông qua Luật Quy hoạch đô thị; đây là lần đầu tiên Việt Nam có luật riêng về quy hoạch xây dựng. Tiếp đó Chính phủ ban hành Nghị định 42/CP về phân loại đô thị (2009) đã làm rõ hơn các tiêu chuẩn, tiêu chí về phân loại đô thị. Bộ Xây dựng cũng đã ban hành Thông tư 34/BXD (2009) nhằm cụ thể hóa trong Nghị định 42/CP. Năm 2014 Quốc hội thông qua Luật Xây dựng (sửa đổi), trong đó có chương II quy định về quy hoạch xây dựng vùng và quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn. Một số văn bản pháp quy khác cũng lần lượt được ban hành như Nghị định 44/2015/NĐ-CP quy định chi tiết một số nội dung về quy hoạch xây dựng để hướng dẫn thi hành Luật Xây dựng và Thông tư 12/2016/TT-BXD quy định về hồ sơ của nhiệm vụ và đồ án quy hoạch xây dựng vùng, quy hoạch đô thị và quy hoạch xây dựng khu chức năng đặc thù. Gần đây Ủy ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết 1210/UBTVQH về phân loại đô thị (2016) đã góp phần luật hóa công tác phát triển đô thị ở nước ta. 
Các phương pháp luận mới về quy hoạch đô thị đã được các nhà quy hoạch đô thị Việt Nam tham khảo, góp phần đổi mới và nâng cao chất lượng quy hoạch đô thị trong nước như: Đô thị học cảnh quan, chiến lược phát triển đô thị, quy hoạch cấu trúc chiến lược, đô thị phát triển bền vững, đô thị xanh, đô thị ứng phó biến đổi khí hậu, đô thị chống chịu, đô thị tăng trưởng xanh... 
Năm 2017, hoạt động xây dựng tăng trưởng khá cao đạt 8,7%. Tỷ lệ đô thị hóa cả nước đạt 37,5%, gần đạt chỉ tiêu theo Nghị quyết Đại hội đảng toàn quốc lần thứ XII (38-40%). Cả nước có 813 đô thị. Tỷ lệ phủ kín quy hoạch chung đô thị đạt 100%, quy hoạch phân khu đạt 77%, quy hoạch chi tiết đạt 38%; Quy hoạch xây dựng nông thôn đạt 99,4%. Có thể nói sáu mươi năm qua, một chặng đường dài, dẫu rằng vẫn còn có những bất cập trong quá trình quy hoạch và phát triển đô thị, song chúng ta ghi nhận trước công lao đóng góp của hàng triệu con người lao động, các nhà quản lý, các nhà khoa học, các nhà đầu tư, các nhà quy hoạch, người dân và bạn bè quốc tế đã nỗ lực không ngừng để chung tay cải tạo, xây dựng mới các đô thị Việt Nam ngày càng khang trang, hiện đại. 

Hà Nội trong đêm (Ảnh: Vũ Long) 

Hà Nội hôm nay (Ảnh: Zing.vn) 

Dinh Thống Nhất TP Hồ Chí Minh (Ảnh: MT) 

Thành phố Cảng Hải Phòng hôm nay (Ảnh: Duy Thính) 

TP Cần Thơ hôm nay (Nguồn: Internet)

Phú Quốc hôm nay (Ảnh: Hlphuquoc.com)

Đổi thay bên sông Sài Gòn (Ảnh: Sở QHKT TPHCM) 
Chúng ta tin tưởng rằng dưới sự lãnh đạo của Đảng, của chính quyền kiến tạo và đầy sáng tạo, nhất định các đô thị của Việt Nam sẽ góp phần quan trọng trong công cuộc đô thị hóa, công nghiệp hóa và hiện đại hóa, làm cho, đất nước ta ngày càng “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” như Bác Hồ kính yêu hằng mong đợi. 

Wednesday, August 22, 2018

Thiết kế kiến trúc cảnh quan “Landscape Architecture” là một lĩnh vực chuyên môn khoa học tổng hợp ứng dụng các nguyên lý về khoa học và nghệ thuật, liên quan đến nhiều lĩnh vực chuyên ngành khác nhau (Quy hoạch không gian, quy hoạch hạ tầng kỹ thuật, kiến trúc công trình, điêu khắc, hội họa…) nhằm giải quyết những vấn để tổ chức môi trường nghỉ ngơi — giải trí, thiết lập và cải tạo môi sinh, bảo vệ môi trường, tổ chức nghệ thuật kiến trúc nhằm mang lại mối quan hệ tổng hòa giữa Thiên nhiên — Con người — Kiến trúc.

Thiết kế cảnh quan cây xanh Tuyến Metro 01 Bến Thành – Suối Tiên (TP.HCM)




Các nhà hoạt động trong lĩnh vực Kiến trúc cảnh quan ứng dụng kỹ năng, kỹ thuật và sáng tạo, khoa học, các hiểu biết về chính trị và văn hóa xã hội trong việc bố trí có ý đồ cho các yếu tố tự nhiên và nhân tạo trên bề mặt trái đất, trong đó có sự quan tâm tới việc quản lý và bảo tồn nguồn nhân lực, tài nguyên thiên nhiên và nhân tạo. Các giá trị môi trường sẽ đáp ứng các mục đích công năng, thẩm mỹ, an toàn và hưởng thụ cho con người.

Thiết kế kiến trúc cảnh quan chính là những không gian bên ngoài công trình kiến trúc nhằm phục vụ cho nhu cầu tất yếu và ngày càng cao của con người và xã hội. Con người không chỉ còn quan tâm đến vấn đề phát triển công trình kiến trúc cũng như nội thất tiện nghi bên trong công trình, việc hình thành các không gian cảnh quan ngoài nhà nhằm tạo lập một tổng thể công trình hoàn mỹ và góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống. Chính vì vậy, ngành Kiến trúc cảnh quan đang ngày càng được quan tâm của toàn xã hội.


Email: songnam09@gmail.com
Hotline : +(84) 1269 861 168
(VietNamNet) - Muốn làm Giám sát thi công bạn phải có bằng ĐH chuyên ngành Xây dựng và chứng chỉ giám sát. Công trường là... "hộ khẩu thường trú".

Để các bạn hiểu rõ hơn về ngành này, xin giới thiệu qua các phần việc cơ bản của một giám sát thi công xây dựng: Nghiệm thu xác nhận khi công trình thi công bảo đảm đúng thiết kế, theo quy chuẩn, tiêu chuẩn xây dựng và bảo đảm chất lượng. Yêu cầu nhà thầu thi công xây dựng thực hiện theo đúng hợp đồng. Từ chối nghiệm thu khi công trình không đạt yêu cầu chất lượng. Đề xuất với chủ đầu tư xây dựng công trình những bất hợp lý về thiết kế để kịp thời sửa đổi...



Và, trong mỗi công trình, phần việc của người giám sát công trình sẽ nhiều ít khác nhau. Thông thường là người giám sát các hoạt động khảo sát, thi công, tư vấn giám sát. Theo dõi tiến độ triển khai công trình. Điều tra, thu thập số liệu hiện trạng trong công tác đền bù và giải phóng mặt bằng...

Một công trình thường có 2 giám sát:

- Kỹ sư tư vấn giám sát (TVGS, gọi tắt là giám sát bên A): được chủ đầu tư (CĐT) thuê để tư vấn cho CĐT về tất cả những gì liên quan đến công trình xây dựng, đồng thời giám sát công tác thi công của nhà thầu xây dựng trên cơ sở bản vẻ thiết kế đã được công ty thiết kế lập. Kỹ sư TVGS chịu trách nhiệm trước CĐT và pháp luật về chất lượng của công trình.

- Kỹ sư giám sát thi công (GSTC, kỹ thuật B, giám sát B): triển khai bản vẽ thiết kế ra thực địa: chỉ đạo, kiểm tra công nhân thi công theo bản vẻ, hồ sơ thiết kế, hồ sơ trúng thầu đã được CĐT phê duyệt.

Hiện nay, có nhiều tổ chức tư vấn thiết kế đăng ký hành nghề thêm lĩnh vực giám sát thi công bên cạnh chủ đầu tư. Và luật phát cũng có những quy định: Muốn được phép hành nghề giám sát thi công xây dựng công trình, tổ chức tư vấn thiết kế, ngoài những yêu cầu năng lực cho công tác thiết kế, công tác lập dự án còn phải có năng lực về giám sát công trình. Những kỹ sư trong tổ chức tư vấn thiết kế muốn được hành nghề giám sát thi công xây dựng công trình phải có trình độ đại học trở lên thuộc ngành phù hợp với lĩnh vực hành nghề xin đăng ký và đã trực tiếp tham gia thiết kế, thi công xây dựng hoặc giám sát thi công xây dựng công trình ít nhất 5 năm, đã qua lớp bồi dưỡng nghiệp vụ giám sát thi công xây dựng.

Chất lượng của một công trình tuỳ thuộc vào người GSTC xây dựng công trình. Người giám sát giỏi, có đạo đức thì công trình có chất lượng và ngược lại. Chính vì thế, để trở thành một GSTC công trình không là điều đơn giản. Và nếu không có đạo đức, người giám sát dễ nhắm mắt trước những bất hợp lý khi thi công.
Nhằm giúp quý khách hàng đang có nhu cầu thi công nhà thép tiền chế hiểu thêm về cấu tạo của kiểu  nhà này chúng tôi xin được giới thiệu một số thông tin cơ bản để mọi người nắm rõ hơn.



    Nhà thép tiền chế là nhà được thi công từ các cấu kiện được làm trước tại xưởng và chuyễn ra điểm lắp dựng tại công trường.
    Nhà thép tiền chế được áp dụng cho nhiều loại hình công trình như nhà xưởng, hàng, show room, nhà cao tầng, mái nhà ga, sân bay… trong đó nhà xưởng là được sử dụng nhiều nhất

Các loại nhà tiền chế ngày nay đang trở thành kiểu nhà rất được ưa chuộng trong lĩnh vực xây dựng. Ngoài thời gian thi công ngắn, độ bền vững cao mà quy trình lắp dựng nhà thép tiền chế còn vô cùng dễ dàng. Vậy kết cấu nhà thép tiền chế như thế nào? Có công ty xây dựng nhà thép tiền chế nào uy tín? Nếu cũng đang băn khoăn như vậy, thì đừng bỏ qua bài viết này trước khi thi công nhà thép tiền chế bạn nhé.

Lắp dựng nhà thép tiền chế là việc gắn kết các cấu kiện thép lại với nhau. Các cấu kiện này được gia công theo bản vẽ nhà tiền chế được thiết kế sẵn trước đó. Kết cấu nhà thép tiền chế thường gồm 3 bộ phận là phần khung chính; các thanh xà gồ, dầm tường, thanh cột ở đỉnh tường; các tấm thép tạo hình bằng cán.

Trong kết cấu nhà thép, phần khung chính gồm chủ yếu là cột kèo. Đây đều là tổ hợp những chi tiết có tiết diện theo hình chữ T. Cột nhà thép tiền chế thường có hình chữ H, tuy nhiên trong một số nhà thép đặc biệt sẽ có hình tròn. Đối với kèo của các mẫu nhà tiền chế thường có cấu tạo dạng dàn hoặc dầm thép thay đổi tiết diện.


Bên cạnh đó, các thanh xà gồ trong kết cấu nhà thép tiền chế thường có hình chữ Z, C và U. Trong thi công, xà gồ thường được liên kết với kèo bằng những bản mã được thiết kế sẵn trên kèo. Dầm, cột thép và cột kèo, cũng được gắn kết chặt chẽ với nhau bằng những bulong cố định có cường độ lớn.

Ngoài ra, mái tôn khi thi công nhà thép tiền chế thường được tạo thêm một lớp cách nhiệt hoặc lớp bông thủy tinh để cách nhiệt và chống ồn cho nhà thép. Trên mái nhà cũng có các tấm lợp sáng để lấy ánh sáng tự nhiên vào bên trong. Điều này giúp đáng kể năng lượng chiếu sáng khi đi vào hoạt động.


Không chỉ vậy trong lắp dựng nhà thép tiền chế thì kết cấu móng nhà thép tiền chế cũng khá quan trọng. Do phần truyền tải trọng từ trên xuống đất nên nền móng của mỗi công trình phụ thuộc vào tổng tải trọng và bề mặt địa chất của nhà thép. Các chủ đầu tư có thể lựa chọn: móng nhà đơn, móng bè hay móng bằng phù hợp với tính kết cấu nhà thép tiền chế.

Quản Lý Dự Án Xây Dựng

Quản Lý Dự Án Xây Dựng
Ban quản lý dự án hoặc tư vấn quản lý dự án là bộ phận đại diện chủ đầu tư để tổ chức thực hiện toàn bộ dự án đầu tư xây dựng từ khâu khảo sát, quy hoạch, đền bù giải tỏa, lập dự án đến tư vấn thiết kế, xin phép xây dựng, tổ chức đấu thầu, tư vấn giám sát và nghiệm thu bàn giao công trình đưa vào sử dụng.